GIÁ THỂ MUTAG BIOCHIP - ỨNG DỤNG CHO HỆ THỐNG TUẦN HOÀN RAS - NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

CHẤT LƯỢNG NƯỚC CAO - TRONG HỆ THỐNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TUẦN HOÀN ( RAS )

Trong vài năm gần đây, các hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) đã phát triển.

Thành công của một trang trại cá phụ thuộc nhiều vào việc liệu cá có thể sống trong môi trường có chất lượng nước tối ưu để phát triển nhanh hơn và vẫn khỏe mạnh cùng lúc.

Mặc dù "nước" trong một trang trại nuôi cá là một hệ sinh thái phức tạp, chất lượng nước có thể được kiểm tra bằng một số thông số đóng vai trò quan trọng. Các thông số quan trọng là nhiệt độ, giá trị pH, và nồng độ hòa tan của oxy, amoni, nitrit, CO2, độ kiềm và chất rắn lơ lửng. Nếu lượng nước  thêm vào giảm đi, thì nồng độ nitrat cũng có thể đạt mức độ nghiêm trọng, khiến cần xem xét giảm xuống khoảng 20 - 50 mg NO3-N/l.

Nitrogen là chất dinh dưỡng thiết yếu cho tất cả các sinh vật sống. Trong nuôi trồng thủy sản, nitrogen là thành phần chất thải, được tạo ra bởi quá trình trao đổi chất của cá. Có nhiều nguồn nitrogen khác nhau: amoni, urê, axit uric và axit amin được bài tiết bởi cá, cũng như các chất hữu cơ còn lại của các sinh vật chết, thức ăn cá không được ăn hết, phân, hoặc khí nito từ khí quyển..

Amoni được tạo ra như sản phẩm cuối cùng của quá trình trao đổi chất protein và được cá thải qua mang chủ yếu dưới dạng amoni không ion hóa. Amoni, nitrit và nitrat tan tốt trong nước.

Amoni tồn tại dưới hai dạng: không phân ly NH3 và phân ly ion NH4+. Nồng độ tương đối của cả hai dạng amoni chủ yếu phụ thuộc vào giá trị pH, nhiệt độ và hàm lượng muối.

Tổng của cả hai thông số (NH4+ + NH3) được gọi là Tổng Nitrogen Amoni (TAN). Trong hóa học, người ta thường biểu thị các thành phần nitrogen vô cơ theo lượng nitrogen mà chúng chứa: NH4+-N (nitrogen amoni ion hóa), NH3-N (nitrogen amoni không ion hóa), NO2-N (nitrogen nitrit), và NO3-N (nitrogen nitrat).

Điều này tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc tính toán Tổng Nitrogen Amoni (TAN = NH4+-N + NH3-N) và chuyển đổi dễ dàng hơn giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình nitrat hóa.

Cá thải chất cặn nitơ chủ yếu qua mang của chúng, chủ yếu là amoniac (NH3), có độc tính đối với cá và nó tồn tại trong nước dưới dạng ammonium tan (NH4). Ngoài ra, một phần nhỏ của nitơ, đặc biệt là dưới dạng urea cũng được tiết vào nước thông qua thận.

Trong các hệ thống dòng chảy liên tục, nước bể cá được pha loãng mạnh do lượng nước cho vào cao. Do đó, nồng độ NH3/NH4 được giữ ở mức chịu đựng được đối với cá. Tuy nhiên, điều này không thể có trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (hoặc tuần hoàn một phần) do lượng nước bổ sung vào hệ thống thấp. Ở đây, amoni trong nước tuần hoàn được oxy hóa bằng cách sử dụng một giai đoạn xử lý đặc biệt: bộ lọc sinh học.

Việc áp dụng bộ lọc sinh học để oxy hóa amoni, kết hợp với tuần hoàn nước trở lại lối vào bể cá, là đặc điểm cốt lõi của các hệ thống tuần hoàn (tuần hoàn một phần).

Mức nồng độ NH3 trong nước được xác định bởi cân bằng phân ly giữa NH4 và NH3. Ở giá trị pH tăng lên và nhiệt độ tăng lên, tỷ lệ phần trăm amoni độc đối với cá NH3 sẽ tăng lên. Các giới hạn NH3-N trong khoảng tối ưu sau một thời gian làm việc dài hạn là 0.008 mg NH3-N trên mỗi lít (0.01 mg/l NH3) cho cá hồi và cá lóc, cũng như là 0.016 - 0.05 mg NH3-N trên mỗi lít (0.02 - 0.06 mg/l NH3) cho cá chép, lươn, cá da trơn và cá rô phi.

 Hơn nữa, trong các hệ thống tuần hoàn đóng, nồng độ của sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng của quá trình loại bỏ amoni - nitrit và nitrat - cũng rất quan trọng. Trong phạm vi các quá trình hóa học nước đi kèm, giá trị pH và độ kiềm (khả năng gắn axit) của nước cũng đóng vai trò thiết yếu. Đối với một loạt các loài cá kén chọn như cá hồi, cá tầm và cá hồi đốm, người ta nhận thấy rằng cần giữ nồng độ NO3-N dưới khoảng 20 - 50 mg/l (khoảng 90 - 220 mg/l NO3). Các loài khác nhau cũng có thể dung nạp nồng độ nitrat cao hơn trong một số trường hợp (khoảng ≥ 300 mg/l NO3). Độ kiềm ít nhất nên ở 1 mmol/l và giá trị pH của nước nên trong khoảng 6,5 - 7,5.

Chỉ bằng cách tái sử dụng nước bể cá sau khi xử lý cơ học và oxy hóa amoni tiếp theo (xử lý sinh học), mới có thể áp dụng lượng nước thấp hơn so với hình thức vận hành liên tục dòng chảy cường độ cao nhất.

Ngoài các thành phần cần thiết để nuôi cá phát triển, cũng như các thành phần thực vật và đơn vị thoát khí CO2, một hệ thống tuần hoàn đóng do đó bao gồm xử lý cơ học và bộ lọc sinh học để oxy hóa NH4-N.

Trong quá trình loại bỏ amoni, hầu hết các hệ thống tuần hoàn đang sử dụng quá trình nitrat hóa của vi sinh vật. Ở đây, quá trình oxy hóa amoni qua bước nitrit (NO2) thành nitrat (NO3) ít độc hơn đối với cá được thực hiện bởi các loài vi khuẩn chuyên biệt (Nitrosomonas và Nitrobacter).

MUTAG BIOCHIP 30TM LÀ VẬT LIỆU MANG HIỆU NĂNG CAO CHO CÁC ỨNG DỤNG RAS